Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

Đầu Phố


Đầu Phố   
Còn chăng tôi đứng chờ em
Trăng lên phố nhỏ buông rèm hoàng hôn
Phố đêm quán vắng có còn
Ai qua phố nhỏ lối mòn đêm thâu
Giọt sương rơi rớt âu sầu
Hương đêm thoang thoảng nhớ câu hẹn thề
Nỗi niềm sao cứ lê thê
Trăng lên đầu phố ta về đi thôi
Thời gian dần cứ xa xôi
Gặp nhau chi lại để rồi chia ly
Ở đời ai biết mấy khi
Hợp rồi tan đó có gì lạ đâu.
                           Văn Vũ

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2019

Về Phố

        Về Phố
Một hôm bước chân về phố
Thấy con hẻm nhỏ thì thào trong mưa
Hoa tàn trên lối đi xưa
Quán quen còn đó ai đưa cuối đường. 
                                     Văn Vũ

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2019

Ngãi_ Một Vấn Đề Tâm Linh Huyền Bí


     Ngãi_ Một Vấn Đề Tâm Linh Huyền Bí
         Ngày xưa khi trái đất và vũ trụ còn hoang sơ, con người cảm thấy nhỏ bé và yếu đuối trước thiên nhiên hùng vĩ, con người ta không thể nào giải thích được những hiện tượng tự nhiên xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của mình như: tại sao lại có màn đêm tĩnh mịch, tại sao lại có gió, tại sao lại có mưa, tại sao lại có bão, có thủy triều lúc lên lúc xuống, tại sao con người lại chết đi. Vì cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên và con người cần một chỗ dựa về tinh thần nên con người đã nghĩ đến việc tôn thờ các hiện tượng tự nhiên như một vị thần(thánh) như: thần núi, thần sông, thần mặt trời, thần dzớt….Và đó cũng là một tiền đề cho sự ra đời của các tín ngưỡng và tôn giáo. Có một câu danh ngôn nào đó nói rằng “ chết là hết nhưng không phải là chấm dứt hoàn toàn” rồi sau cái chết ấy con người (linh hồn) sẽ đi về đâu. Theo giáo lý của các tôn giáo thì cho rằng linh hồn của con người sẽ lên Thiên Đàng về Tây Phương cực lạc nếu người đó sống tốt, và sẽ bị đày xuống 18 tầng địa ngục nếu người đó sống độc ác, tham lam, tàn bạo…..Lẩn quẩn với những suy nghĩ miên man của thế giới tâm linh đầy huyền bí, tôi chợt nhớ đến một vấn đề, nó cũng thuộc khía cạnh của tâm linh, các bạn có biết đó là vấn đề gì không? Đó là “Ngãi”, một vấn đề hết sức trừu tượng. Vậy ngãi là cái gì? Và người ta dùng nó để làm gì? Để trả lời  các câu hỏi này một cách tường tận là rất khó và với sự hiểu biết hạn hẹp tôi chỉ xin được viết đôi dòng, có câu ca dao nói rằng “ già nhân ngãi non vợ chồng”. Vậy ở đây ngãi là cái gì? tôi xin nói thế này, nó là một linh hồn ở bờ tre, ngọn trúc, đầu đường, xó chợ, chết bom, chết đạn, chết chìm, chết nổi, hữu dị vô danh, hữu danh vô dị, là những linh hồn không siêu sinh, và người nuôi ngãi, người ta rước về lập một bài vị, hay còn gọi là lập một chỗ thờ phụng. Hằng này người ta cung cấp thức ăn và thỏa mãn các yêu cầu của nó, nói một cách dễ hiểu cũng giống như các bạn nuôi một con thú cưng. Vậy người ta nuôi nó để làm gì? Cũng như các bạn các bạn nuôi thú cưng có mục đích thì người nuôi ngãi cũng có mục đích. Đại đa số những người nuôi ngãi là những người làm công việc coi ngày, bốc quẻ, xem sao, đoán mệnh hay còn gọi là lí, số nói theo ngôn ngữ dân gian là làm nghề “coi thầy”, còn ở các nước phương Tây gọi là Phù thủy. Hẳn các bạn đã quá am hiểu về an ninh và quân đội, nói đại khái như vậy, quân đội có trinh sát, ngãi cũng như vậy. Khi một người đến xem, hay đi “coi thầy”, chủ nhân của ngãi không biết gia cảnh của họ thế nào, thì sai ngãi đến nhà của họ nắm thông tin về họ, và sau khi nắm thông tin ngãi về mách lại chủ nhân của mình, rồi từ những thông tin đó người “thầy” sẽ đưa ra những tiên đoán về số mệnh của người đến xem.
      Đó là những gì tôi hiểu và biết về ngãi và ngãi giúp được gì cho cuộc sống của con người, bạn hãy thử tìm hiểu và hãy nhận xét. Văn Vũ

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2019

TRE VÀ NHỮNG SUY NGẪM


    
TRE VÀ NHỮNG SUY NGẪM
Bản Vẽ Rựa Chẻ Nan
Người Thiết Kế: Văn Vũ
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên lũy nên cành tre ơi
       Cây tre có tự bao giờ đến nay cũng chẳng ai còn biết, tre đã đi vào trong tâm thức của người dân Việt Nam như một hình ảnh quen thuộc và bình dị, khi nhắc đến một làng quê Việt Nam, người ta hay nghĩ đến “ bờ tre, cây đa, bến nước, sân đình”. Tre thường được trồng và mọc ở ven bờ các dòng sông, ở những sân đình, chùa chiền và miếu mạo. Về chủng loại tre có rất nhiều chủng loại khác nhau, tùy theo từng vùng do đặc điểm về thổ nhưỡng và khí hậu mà tre cũng có đặc điểm khác nhau, tre Bắc kỳ, tre bắc trung, tre nam trung, tre nam kỳ, trong đó tre Nam trung là nhiều gai, khó chặt( đón) và nguy hiểm nhất. Ở đây ý tôi muốn nói đến sự nguy hiểm của việc đón tre, ông bà ta thường nói “ nhất đón tre, nhì ve gái”. Vốn dĩ là cháu của nghệ nhân mây tre, từ thuở nhỏ tôi đã thấy ông tôi, cha tôi, đón tre nên hiểu được sự hiểm nguy của công việc này. Sau này khi trưởng thành tôi trực tiếp làm và hiểu được. Về mứt độ nguy hiểm có rất nhiều nhưng ở đây tôi xin nói đến 3 loại hình thế tre nguy hiểm.
1.     Tre Dộng Cối: là loại tre mọc giữa bụi đứng thẳng tắp, khi đón cây tre này dộng xuống giữa bụi như cái chày dộng xuống cối, và cành lá của nó lôi người đón tre theo
2.     Tre Long Chầu (Rồng chầu): là loại tre treo lắt lẻo, khi chặt cây tre này nó bật(búng) lên treo lơ lửng trên bụi tre, nó cũng lôi người đón tre theo
3.     Tre Sinh Tử(sống chết): là loại thân nó ngã nằm ngang, người không hay đón tre nghĩ rằng nó rất dễ chặt, bởi vậy khi chặt cây tre này, thân tre sẽ bị tướt( chẻ) đôi, và đâm thẳng vào lồng ngực người đón tre
Và không biết có đúng hay không về tâm linh, có một lần nghe một ông lão cao niên trong làng nói với tôi rằng những bụi tre có những loại tre như vậy là những bụi tre có ma. Không biết là đúng hay không nhưng đón tre là một công việc cũng không kém phần nguy hiểm, các bạn nên cẩn thận. Văn Vũ

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2019

Cách Đánh Giặc Của Lý Thường Kiệt

Cách Đánh Giặc Của Lý Thường Kiệt
(Tiên Phát Chế Nhân - Ra Tay Trước Để Khắc Chế Người)
       Kế sách này ý muốn nói, ra tay trước để giành thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động. Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc. Về kế sách này có thể trích dẫn Trận đánh sang Ung Châu của Lý Thường Kiệt (Cuộc Kháng Chiến Chống Tống)
       Trong cuộc kháng chiến chống Tống sau khi củng cố lực lượng ngăn ngừa bất trắc từ mặt Nam, Lý Thường Kiệt không bị động chờ đợi giặc mà đã quyết định tiến công địch trước để đẩy giặc vào thế bị động, giành lấy thế chủ động cho cuộc kháng chiến. Lý Thường Kiệt liền tổ chức một cuộc tấn công vào đất Tống nhằm phá tan các cứ điểm tập trung quân của quân Tống ở Ung, Khâm, Liêm chủ yếu là ở Ung Châu, rồi quay về phòng thủ đất nước.
       Lý Thường Kiệt đã huy động 10 vạn quân thủy bộ, chủ yếu là quân các dân tộc thiểu số miền núi, do các tù trưởng chỉ huy, phụ trách chỉ huy chung là Tôn Đản, bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn(Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu. Quân chủ lực đi theo đường thủy do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, đóng ở Vĩnh An( Móng Cái – Quảng Ninh).
      Ngày 30 – 12 – 1075 quân của Lý Thường Kiệt đánh Khâm Châu và chiếm Liêm Châu dễ dàng, quân Tống không cản nổi bước tiến quân của Lý Thường Kiệt. Để tạo điều kiện thuận lợi và tiến sâu hơn vào đất Tống, Lý Thường Kiệt đã cho niêm yết “ phạt Tống lộ bố văn” ( tức là vừa đánh vừa công bố lý do quân ta đánh sang đất Tống). Ngày 18 – 1 – 1075 quân bộ binh do Tôn Đản chỉ huy đã tiến đến Ung Châu, lúc đó Lý Thường Kiệt cũng đến nơi, Lý Thường Kiệt quyết định vây thành Ung Châu, cuộc vây thành kéo dài hơn một tháng, quân Tống ở Ung Châu vì hết quân lương, thiếu nước uống, thiếu thuốc men…cuối cùng cũng hạ được Ung Châu, sau khi hạ Ung Châu Lý Thường Kiệt đã hạ lệnh rút quân.
     Cuộc tân công sang Ung Châu là để làm suy yếu lực lượng tập trung của quân Tống, đẩy quân Tống vào thế bị động, giành lấy thế chủ động, tạo ra cơ hội, điều kiện có lợi để đánh bại quân Tống khi chúng kéo sang Đại Việt(Việt Nam). Văn Vũ  

Nghệ Thuật “Vây Thành Diệt Viện” Trong Cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn


Nghệ Thuật “Vây Thành Diệt Viện” Trong Cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn
     Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước. Trải qua hàng chục cuộc kháng chiến và khởi nghĩa lớn của dân tộc, ông cha ta đã để lại cho thế hệ hôm nay nhiều kinh nghiệm quý giá, nhiều nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427) và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo, không chỉ biết khắc phục những hạn chế của nhiều cuộc khởi nghĩa trước đó mà còn có nhiều sáng tạo về nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong suốt tiến trình cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân đã “lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế”, “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức”, biết đặt thượng sách giữ nước ở trong lòng dân, lấy “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, mà khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân đứng lên giành và bảo vệ nền độc lập. Trên khắp mọi miền đất nước, các đội Nghĩa quân Lam Sơn đã phối hợp với nhân dân địa phương đã dựng nên thế trận làng – nước cùng đánh giặc. Trong cuộc kháng chiến này nghĩa quân Lam Sơn đã giành được những thắng lợi vang dội. Trong đó đợt hoạt động vây hãm thành Đông Quan, diệt và làm tan rã hai đạo quân cứu viện do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy vào năm 1427 đã để lại nhiều bài học quý báu, đặc biệt là nghệ thuật “ vây thành, diệt viện”.
      Trải qua 10 năm chiến đấu gian khổ bền bỉ (1418 – 1427) cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ miền núi Lam Sơn (Thanh Hóa) đã phát triển rộng ra phạm vi toàn quốc, với thế và lực vượt trội. Từ lực lượng ban đầu (1418) chỉ có 2000 quân, đến năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn đã có đến 350000 quân. Nghĩa quân hoàn toàn giữ quyền chủ động chiến lược, liên tiếp giành thắng lợi, tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch, buộc Tổng binh Vương Thông cùng toàn bộ số quân còn lại phải cố thủ trong thành Đông Quan và một số thành lũy khác chờ quân cứu viện. Trước tình thế nguy cấp đó, nhà Minh đã huy động một lực lượng lớn tiến vào nước ta, nhằm thực hiện mưu đồ: trước là để cứu viện; sau là chuyển bại thành thắng để tiếp tục đô hộ nước ta.
      Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình so sánh lực lượng, thế lực giữa ta và địch. Bộ chỉ huy Nghĩa quân chủ trương; bao vây chặt Đông Quan, buộc quân địch phải đến giải cứu, tiếp đó tập trung lực lượng tiêu diệt lực lượng viện binh chiến lược này của chúng.
      Đúng như chủ trương chiên lược mà Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã đề ra, Nghĩa quân đã tiến hành vây ép, cô lập hoàn toàn quân địch trong thành, buộc chúng phải kéo viện binh chiến lược để giải cứu, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt lực lượng lớn quân địch, kết thúc chiến tranh. Sau khi giải phóng nhiều địa bàn chiến lược trọng yếu, Nghĩa quân Lam Sơn thừa thắng tiến đánh thành Đông Quan (lực lượng chủ yếu và là sào huyệt cuối cùng của quân Minh). Trước thế mạnh của quân ta địch buộc phải dựa vào thành trì kiên cố để tổ chức cố thủ chờ quân đến cứu viện. Lúc này Nghĩa quân đứng trước hai lựa chọn; hoặc là tiến công thành, diệt địch kết thúc chiến tranh; hoặc là vây, hãm quân địch trong thành, nhử viện quân của chúng vào trận địa chuẩn bị trước để tiêu diệt hoàn toàn, khiến địch trong thành không đánh mà tan. Sau khi nghiên cứu kĩ tình hình, Bộ chỉ huy nghĩa quân lựa chọn phương thức tác chiến “vây thành, diệt viện”. Đây là kế sách rất đúng đắn, sáng tạo “dùng sức một mà thành công gấp bội”. Bởi lẽ quân địch trong thành Đông Quan lúc bấy giờ không nhiều (khoảng 3 – 4 vạn) nhưng có thành lũy kiên cố, nếu ta cố sức đánh sẽ mất nhiều thời gian, quân mỏi, nhụt chí, nếu chưa hạ được thành mà viện binh địch kéo đến thì cả phía trước và phía sau đều bị tấn công, ta từ chủ động rơi vào thế bị động.
      Trong trường hợp đánh thành giành được thắng lợi, thì địch tất đem quân đánh báo thù, nạn binh đao lại tiếp tục diễn ra, nhân dân khổ cực lầm than, mà đất nước khó được vẹn toàn. Nếu ta kiên trì vây thành, tất viện binh của địch phải kéo sang, ta có điều kiện đánh địch ở nơi chuẩn bị trước để tiêu diệt hoàn toàn lực lượng địch, khi viện binh địch bị tiêu diệt, quân trong thành tất phải xin hàng.
      Thực hiện chủ trương đó, Lê Lợi quyết định dời đại bản doanh lên khu vực Bồ Đề (Long Biên – Hà Nội ngày nay) đối diện với thành Đông Quan, để trực tiếp chỉ huy vây ép địch. Theo đó Nghĩa quân đã tổ chức đánh nhiều trận tiêu diệt các doanh trại bảo vệ vòng ngoài, siết chặt vòng vây, kiên quyết đánh bại các đợt phản kích của chúng. Đúng như ta dự đoán, để giải vây cho quân đồn trú ở thành Đông Quan, đầu 10 – 1427 nhà Minh huy động lực lượng dự bị chiến lược, chia làm hai đạo tiến vào nước ta. Đạo quân chủ yếu do Liễu Thăng làm Tổng binh gồm 10 vạn quân theo đường Vân Nam tiến sang nhưng đều rơi vào thế trận phục kích quân ta bày sẵn, nên đã nhanh chóng bị tiêu diệt.
      Với nhận định, đánh giá đúng tình hình, xác định chính xác mục tiêu tiến công chủ yếu để đánh một trận quyết định kết thúc chiến tranh. Sau khi viện binh lớn của địch kéo sang, cùng với việc tiếp tục vây, hãm địch ở thành Đông Quan và các thành khác, Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã tiến hành nghiên cứu kĩ tình hình địch, địa hình và khả năng của ta. Viện binh địch tiến vào nước ta theo hai hướng, nếu ta tổ chức đánh cả hai lực lượng cùng một lúc thì rất khó thực hiện, bởi lực lượng của ta có hạn. Hơn nữa Nghĩa quân vẫn phải sử dụng lực lượng đủ mạnh để vây chặt thành trì của địch, đồng thời phải có lực lượng dự bị để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Như vậy nếu tổ chức đón đánh cả hai cánh quân cứu viện thì ta không những không đủ lực lượng để đánh cả hai cánh quân cứu viện, ta không những không đủ lực lượng để đánh tiêu diệt, mà còn không khóa chặt dược thành trì địch, thậm chí có thể bị chúng đánh từ ba mặt, tình thế hiểm nguy, nếu sai lầm trả giá bằng biết bao sinh mạng binh sĩ.
       Do đó Nghĩa quân đã lựa chọn chính xác, một mặt duy trì lực lượng vây thành; một mặt khác tổ chức tập trung lực lượng để tiêu diệt từng cánh quân cứu viện của địch. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là lựa chọn tiêu diệt đạo viện binh nào trước để thay đổi cục diện chiến trường kết thúc chiến tranh. Trên cơ sỏ phân tích, đánh giá tình hình một khoa học, Lê Lợi và Bộ chỉ huy nghĩa quân nhận thấy đạo viện binh của Mộc Thạnh tuy yếu hơn, dễ đánh, nhưng địa bàn tác chiến lại hiểm trở, nếu ta di chuyển hang vạn quân lên miền Tuyên Quang, Hà Giang để đánh địch thì sẽ gặp khó khăn và nếu khi tình huống thay đổi, khó có thể hội quân kịp thời. Không những thế đạo quân này nếu có bị tiêu diệt thì cũng không có tác động lớn đến đạo viện binh chủ yếu và toàn cuộc chiến tranh. Ngoài ra nếu thực hiện phương án này, ta sẽ không tập trung đủ lực lượng để ngăn chặn đạo quân chủ yếu. Nên chỉ cần lực lượng thích hợp ngăn chặn đạo quân thứ yếu, tập trung lực lượng để tiêu đạo quân chủ yếu, đó mới là “kế vẹn toàn”. Với đạo quân của Liễu  Thăng lực lượng đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu, có quân đông, lực lượng mạnh, hơn nữa quãng đường đến Đông Quang lại ngắn hơn đạo quân kia, nên sẽ rất nguy hiểm nếu ta không ngăn chặn tiêu diệt được chúng.
      Từ đánh giá kết luận tình hình nêu trên cùng với việc tổ chức lực lượng nhỏ, gọn để chặn đánh đạo quân của Mộc Thạnh, Nghĩa quân đã chủ động xây dựng kế hoạch, quyết tâm và tập trung lực lượng chủ yếu tinh nhuệ để đối phó với đạo quân chủ yếu của Liễu Thăng. Đây là nghệ thuật lựa chọn mục tiêu diệt viện có một không hai trong lịch sử, đó là quân ta dám đương đầu với lực lượng mạnh nhất của địch, khi đã nhìn thấy những điểm yếu chí tử của chúng như: kiêu căng, chủ quan, sơ hở, ở thế bị động, để tập trung lực lượng đánh trận quyết chiến chiến lược giành thắng lợi.
      Thực tiễn chiến trường đã chứng minh điều đó, đạo quân Mộc Thạnh do quân ít, đường xa nên tiến quân dè dặt. Trái lại  đạo quân Liễu Thăng cậy đông nên tiến quân ồ ạt không có phòng bị, nên ta đã nhanh chóng lọt vào trận địa phục kích của quân ta và bị tiêu diệt hoàn toàn. Nét đặc sắc của nghệ thuật lựa chọn hướng tiến công chủ yếu còn được thể hiện khi đạo viện quân Liễu Thăng bị đánh tan, quân Mộc Thạnh đã vô cùng khiếp sợ, tự tan rã, tháo chạy về nước và đạo quân Vương Thông phải quy hàng.
      Vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với tình hình để tiêu diệt lực lượng lớn viện binh địch. Trước tình thế hai đạo viện binh chiến lược của địch tạo thành hai gọng kìm tiến vào nước ta Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã nhanh chóng tổ chức lực lượng tiêu diệt toàn bộ các thành trì nằm trên đường cơ động của hai đạo quân cứu viện. Đây là bước tạo thế vô cùng quan trọng cho quân ta, đồng thời làm viện binh địch mất chỗ dựa quan trọng trong quá trình tiến công. Vì vậy khi ta đánh quân viện, ngoài Đông Quan quân Minh chỉ còn thành Toa Đô và Cổ Lộng, ta chỉ cần một lực lượng vừa đủ để vây các thành này.
      Để đánh viện binh địch có hiệu quả, Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã nghiên cứu nắm chắc lợi thế về địa hình cùng những điểm mạnh, điểm yếu của từng cánh quân địch. Đối với đạo quân của Mộc Thạnh địa hình tiến quân tương đối hiểm trở nên rất khó cơ động. Vì vậy Nghĩa quân sử dụng lực lượng thích hợp chủ yếu là quân địa phương, lợi dụng địa hình hiểm yếu để ngăn chặn bước tiến của chúng.
      Với đạo quân của Liễu Thăng có quân đông, tướng giỏi lực mạnh Nghĩa quân chủ trương lấy “ đoản chế trường” thực hiện bám sát, nắm chắc địch ngay từ khi chúng đặt chân sang nước ta, tận dụng thế hiểm yếu của địa hình để tạo lập thế trận và sử dụng lực lượng tiêu diệt địch. Theo đó cùng với việc đánh cắt lương thảo, ta sử dụng từng đội quân nhỏ, thiện chiến để đánh chia cắt địch ra từng mảng, đồng thời vận dụng các biện pháp tác chiến nhử chúng vào trận địa phục kích để tiêu diệt. Nhờ đó ta đã làm tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, khiến tư tưởng binh lính địch hoang mang, sức lực cạn kiệt dần, dẫn đến bị động đối phó, từ đó buộc phải triển khai ở thế bất lợi.
Tận dụng thời cơ Nghĩa quân đã tập trung lực lượng với ưu thế vượt trội, tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch. Qua thực tiễn trận đánh cho thấy, Liễu Thăng cùng với quân tiên phong đã bị ta khéo léo dẫn dắt vào trận địa mai phục hiểm trở ở ải Chi Lăng, nên chỉ với 1 vạn quân Nghĩa quân đã tiêu diệt hơn một vạn quân Minh cùng chủ soái. Tiếp đó hơn 1 vạn quân địch bị phơi xác ở Cần Trạm, 2 vạn tên bị tiêu diệt tại Phố Cát…
      Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, địch vội vàng dồn quân xuống cánh đồng Xương Giang để tìm cách đối phó. Nắm chắc thời cơ Lê Lợi quyết định tập trung lực lượng vượt trội bao vây chặt quân địch, hình thành nhiều mũi, nhiều hướng, đồng loạt tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ đạo viện binh chủ yếu của địch.
      Như vậy với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, khoét sâu những điểm yếu chí tử của quân địch, quân và dân ta đã đánh tan 15 vạn quân thiện chiến của nhà Minh, giành thắng lợi to lớn. Thắng lợi đó không chỉ xua đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, kết thúc chiến tranh mà còn đánh bại ý chí xâm lược của chúng đem lại nền thái bình cho đất nước. Thắng lợi này thể hiện nét đặc sắc về nghệ thuật “vây thành diệt viện” được nghiên cứu và vận dụng sáng tạo trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Nghệ thuật “vây thành diệt viện” của Nghĩa quân Lam Sơn đã phát triển đến trình độ cao với nhiều nét đặc sắc. Đây là bài học quý giá vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc ngày hôm nay.
                                                                                     Văn Vũ


Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2019

Phong Trào Cần Vương. Phong Trào Nghĩa Hội - Quảng Nam


Phong Trào Cần Vương. Phong Trào Nghĩa Hội - Quảng Nam
     Sau hai hiệp ước Hacmăng(1883),và Patơnôt(1884) đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của nhà nước phong kiến Việt Nam và sự đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn trước đế quốc Pháp, hay nói như người Pháp là “ nhà nước đại Pháp”. Tuy nhiên trong triều đình Huế vẫn có một số quan lại yêu nước vẫn nuôi chí hành động khi có thời cơ, tiêu biểu đó là Tôn Thất Thuyết. Sau khi vua Tự Đức mất Tôn Thất Thuyết là một trong ba phụ chính đại thần giữ chức vụ Thượng thư Bộ binh, đang ráo riết liên kết xây dựng lực lượng chờ thời cơ chống lại quân Pháp. Phái chống Pháp do ông đứng đầu(hay còn gọi là phái chủ chiến) đã bí mật xây dựng lực lượng (như mở đường thượng đạo, xây dựng các căn cứ sơn phòng trên dãy Trường Sơn, chuyến vũ khí, lương thực ra Tân Sở - Quảng Trị).
     Về phía Pháp: Nội các Pháp đã quyết định đẩy nhanh kế hoạch chiến tranh, Hạ viện Pháp đã thông qua 500 triệu phơ răng cho ngân sách chiến tranh Việt Nam, đẩy mạnh hoàn thành chiếm đóng Việt Nam, tiếp tục gửi thêm 6000 quân sang Việt Nam, đồng thời cử tướng Cuôcxy (Dơ cuocy) nắm toàn quyền chỉ huy cả quân sự và chính trị ở Việt Nam. Khi đến Việt Nam Cuôcxy quyết định tấn công vào kinh thành Huế, dùng áp lực quân sự loại bỏ phái chủ chiến, giải tán quân đội triều đình, bắt Tôn Thất Thuyết, buộc vua Hàm Nghi phải thoái vị.
     Đứng trước tình hình như vậy Tôn Thất Thuyết đã quyết định nổ súng “tiên hạ thủ vi cường” nhằm giành thế chủ động. Tôn Thất Thuyết đã cùng với em mình là Tôn Thất Lệ chỉ huy đánh vào Tòa Khâm Sứ Pháp và đồn Mang Cá. Tuy nhiên cuộc tấn công đã thất bại, kinh thành Huế thất thủ. Sáng ngày 5 – 7 - 1885, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi rời khỏi kinh đô Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở(Quảng Trị), tại đây Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương(lần thứ nhất). Ở Quảng Trị một thời gian Tôn Thất Thuyết lại đưa vua Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê – Hà Tĩnh). Tại đây vua Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương (lần thứ hai). Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi trên đất nước, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân yêu nước đã sôi nổi hăng hái đứng lên chống Pháp. Phong trào Cần Vương đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, phong trào nổ ra rầm rộ, rộng khắp, ở khắp nơi, từ Bắc vào Nam, từ Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định với rất nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, với rất nhiều sĩ phu tiêu biểu. Trong đó có Phong trào Nghĩa Hội của Trần Văn Dự, Nguyễn Duy Hiệu ở Quảng Nam.
    Vào tháng 7 – 1885 hưởng ứng chiếu Cần Vương, Tiến sĩ Trần Văn Dự, phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, cử nhân Phan Bá Phiến đã đứng ra thành lập Nghĩa Hội – Quảng Nam, ra bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh đứng lên đáp nghĩa Cần Vương chống Pháp.
     9 – 1885 nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Trần Văn Dự đã bao vây chiếm tỉnh thành La Qua, quân triều đình là Bố chánh Bùi Tiến Tiên, Tuần phủ Nguyễn Ngoan đã phải bỏ thành rút chạy, nghĩa quân chiếm tỉnh thành và làm chủ tỉnh thành, nhưng sau đó quân Pháp phản công chiếm lại thành, rồi thừa thắng truy kích, tấn công vào các căn cứ của nghĩa quân ở Đại Lộc, Quế Sơn, Tam Kỳ. Trước sức mạnh và vũ khí tối tân của địch lực lượng nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, các căn cứ của nghĩa quân như Dương Yên, An Lâm, Đại Đồng đều bị địch bao vây và lần lượt thất thủ. Thủ lĩnh Trần Văn Dự bị giặc bắt rồi xử tử hình, nhận sự phó thác của Trần Văn Dự, đầu  1886 Nguyễn Duy Hiệu chính thức làm Hội chủ mới của Nghĩa Hội – Quảng Nam.  Việc làm đầu tiên đó là Nguyễn Duy Hiệu tính đến việc xây dựng các căn cứ chiến đấu lâu dài tại Trung Lộc (Quế Sơn) và lập Tân tỉnh, đây là nơi trọng yếu chỉ đạo mọi hoạt động của Nghĩa Hội cả vùng. Về sự kiện này trong tập Hồi ký “Du khảo dọc đường cái quan từ Huế vào Nam Kỳ” của Giám thị công trường dây thép Camille Paris, đã ghi lại như sau “ Chúng tôi đến Quảng Nam, tỉnh lỵ của tỉnh này…Hiệu tên lãnh tụ phiến loạn đã đi qua đây…Bọn phiến loạn còn lì lợm đặt một trạm tuyển quân bên kia bờ con sông…chữ ký của Hiệu, tên lãnh tụ phiến loạn trong vùng, trong đó y kêu gọi bọn lý trưởng đem rui kèo làm nhà trên núi”. Bên cạnh việc tập trung xây dựng căn cứ, Nguyễn Duy Hiệu cùng Phan Bá Phiến còn kêu gọi thân hào, nhân sĩ, và tuyển mộ binh lính trong khắp cả vùng. Hưởng ứng lời kêu gọi đó của Tân hội chủ, đông đảo thân hào, nhân sĩ của ba tỉnh Quảng Nam – Quảng Ngãi – Bình Định cùng tham gia Nghĩa Hội chống Pháp “ trừ bạo an dân”
     Để đối phó với thế giặc mạnh có “đại bác tàu đồng”, Nguyễn Duy Hiệu đã thực hiện những chiến thuật chiến tranh truyền thống vốn có của cha ông, đó là thực hiện chiến tranh du kích “ không dân đất trắng”. Một cựu Khâm sứ Huế lúc bấy giờ là Louis Baille viết trong Hồi ký như sau “ Người này còn trẻ mà có nghị lực phi thường, đã dần dần nổi tiếng nên vị anh hùng kỳ dị, dựng tỉnh Quảng Nam gần thành một nước, Thanh thế y lan mạnh lạ lùng trong hạt. Theo mệnh lệnh y, các làng bỏ hoang, dân quê tự đốt nhà và thanh dã trước khi quân ta tới”. Nguyễn Duy Hiệu và những lãnh đạo của Nghĩa Họi đã chỉ huy nghĩa quân đánh những trận thoát ẩn thoát hiện làm cho quân Pháp khiếp vía kinh hồn. Như Baille đã thú nhận “ Nó làm tiêu hao lực lượng quân ta bằng những trận đánh liên tục. Mỗi đêm là một khiêu khích đồn ta, rồi lủi trốn để lẩn tránh, hẳn thế một cuộc phản công đích đáng. Mộng tưởng của một viên đồn trưởng là luôn luôn đuổi kịp được giặc, nhưng phần lớn đó chỉ là ảo tưởng đành phải bỏ dỡ…”
     Chỉ trong vòng hơn hai năm dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Duy Hiệu, Nghĩa Hội đã lập được nhiều chiến công vang dội và gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề. Nhưng gươm giáo thô sơ làm sao có thể cầm cự lại quân đội hùng mạnh với súng đạn tối tân của Pháp. Do vậy Nghĩa Hội ngày càng bị vây hẹp bởi không chỉ quân Pháp mà còn có quân của triều đình Đồng Khánh. Thêm vào đó bọn bán nước cầu vinh đã dùng những thủ đoạn hèn hạ, như bắt cóc mẹ già, vợ con của Hiệu để uy hiếp. Nhận thấy tình hình Nghĩa Hội ngày càng bị yếu, thế cô, nếu kéo dài sẽ tiếp tục tổn thất.  Nguyễn Duy Hiệu quyết định giải tán Nghĩa Hội và tự nhận hết tội lỗi về mình “ Nghĩa Hội Quảng Nam ở ba tỉnh không dưới vài trăm, đều là những người có tên tuổi, nhưng cam tâm làm giặc chỉ có mình Hiệu mà thôi, Kỳ Dự đều bị ép theo. Họ sợ bị thiêu hủy nhà cửa, không dám không theo, ngoài ra không có bụng gì khác. Vậy chém. Một mình Hiệu cũng đủ, chớ nhọc lòng hỏi tội những kẻ khác làm gì. 
     Sau khi trốn thoát khỏi sự vây bắt của quân giặc, Nguyễn Duy Hiệu về làng Thanh Hà vào đền Quan Thánh vái lạy, làm lễ trước mộ thân sinh, vái lạy thầy học và hướng mình về phía Nghệ An, nơi vua Hàm Nghi đang ẩn náu, sau đó cụ cho người báo tin cho quân của Nguyễn Thân đến bắt. Trên đường giải về Huế cụ vẫn ung dung mỉm cười. Vào ngày Trung Thu 1887(Đinh Hợi) cụ bị xử chém tại pháp trường An Hòa(Huế). Cuộc khởi nghĩa của Nghĩa Hội hay Phong trào Nghĩa Hội đến đây chấm dứt.
Văn Vũ  


Đầu Phố

Đầu Phố     Còn chăng tôi đứng chờ em Trăng lên phố nhỏ buông rèm hoàng hôn Phố đêm quán vắng có còn Ai qua phố nhỏ lối mòn đêm t...