Thứ Hai, 1 tháng 4, 2019

Nghệ Thuật “Vây Thành Diệt Viện” Trong Cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn


Nghệ Thuật “Vây Thành Diệt Viện” Trong Cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn
     Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước. Trải qua hàng chục cuộc kháng chiến và khởi nghĩa lớn của dân tộc, ông cha ta đã để lại cho thế hệ hôm nay nhiều kinh nghiệm quý giá, nhiều nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427) và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo, không chỉ biết khắc phục những hạn chế của nhiều cuộc khởi nghĩa trước đó mà còn có nhiều sáng tạo về nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong suốt tiến trình cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân đã “lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế”, “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức”, biết đặt thượng sách giữ nước ở trong lòng dân, lấy “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, mà khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân đứng lên giành và bảo vệ nền độc lập. Trên khắp mọi miền đất nước, các đội Nghĩa quân Lam Sơn đã phối hợp với nhân dân địa phương đã dựng nên thế trận làng – nước cùng đánh giặc. Trong cuộc kháng chiến này nghĩa quân Lam Sơn đã giành được những thắng lợi vang dội. Trong đó đợt hoạt động vây hãm thành Đông Quan, diệt và làm tan rã hai đạo quân cứu viện do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy vào năm 1427 đã để lại nhiều bài học quý báu, đặc biệt là nghệ thuật “ vây thành, diệt viện”.
      Trải qua 10 năm chiến đấu gian khổ bền bỉ (1418 – 1427) cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ miền núi Lam Sơn (Thanh Hóa) đã phát triển rộng ra phạm vi toàn quốc, với thế và lực vượt trội. Từ lực lượng ban đầu (1418) chỉ có 2000 quân, đến năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn đã có đến 350000 quân. Nghĩa quân hoàn toàn giữ quyền chủ động chiến lược, liên tiếp giành thắng lợi, tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch, buộc Tổng binh Vương Thông cùng toàn bộ số quân còn lại phải cố thủ trong thành Đông Quan và một số thành lũy khác chờ quân cứu viện. Trước tình thế nguy cấp đó, nhà Minh đã huy động một lực lượng lớn tiến vào nước ta, nhằm thực hiện mưu đồ: trước là để cứu viện; sau là chuyển bại thành thắng để tiếp tục đô hộ nước ta.
      Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình so sánh lực lượng, thế lực giữa ta và địch. Bộ chỉ huy Nghĩa quân chủ trương; bao vây chặt Đông Quan, buộc quân địch phải đến giải cứu, tiếp đó tập trung lực lượng tiêu diệt lực lượng viện binh chiến lược này của chúng.
      Đúng như chủ trương chiên lược mà Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã đề ra, Nghĩa quân đã tiến hành vây ép, cô lập hoàn toàn quân địch trong thành, buộc chúng phải kéo viện binh chiến lược để giải cứu, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt lực lượng lớn quân địch, kết thúc chiến tranh. Sau khi giải phóng nhiều địa bàn chiến lược trọng yếu, Nghĩa quân Lam Sơn thừa thắng tiến đánh thành Đông Quan (lực lượng chủ yếu và là sào huyệt cuối cùng của quân Minh). Trước thế mạnh của quân ta địch buộc phải dựa vào thành trì kiên cố để tổ chức cố thủ chờ quân đến cứu viện. Lúc này Nghĩa quân đứng trước hai lựa chọn; hoặc là tiến công thành, diệt địch kết thúc chiến tranh; hoặc là vây, hãm quân địch trong thành, nhử viện quân của chúng vào trận địa chuẩn bị trước để tiêu diệt hoàn toàn, khiến địch trong thành không đánh mà tan. Sau khi nghiên cứu kĩ tình hình, Bộ chỉ huy nghĩa quân lựa chọn phương thức tác chiến “vây thành, diệt viện”. Đây là kế sách rất đúng đắn, sáng tạo “dùng sức một mà thành công gấp bội”. Bởi lẽ quân địch trong thành Đông Quan lúc bấy giờ không nhiều (khoảng 3 – 4 vạn) nhưng có thành lũy kiên cố, nếu ta cố sức đánh sẽ mất nhiều thời gian, quân mỏi, nhụt chí, nếu chưa hạ được thành mà viện binh địch kéo đến thì cả phía trước và phía sau đều bị tấn công, ta từ chủ động rơi vào thế bị động.
      Trong trường hợp đánh thành giành được thắng lợi, thì địch tất đem quân đánh báo thù, nạn binh đao lại tiếp tục diễn ra, nhân dân khổ cực lầm than, mà đất nước khó được vẹn toàn. Nếu ta kiên trì vây thành, tất viện binh của địch phải kéo sang, ta có điều kiện đánh địch ở nơi chuẩn bị trước để tiêu diệt hoàn toàn lực lượng địch, khi viện binh địch bị tiêu diệt, quân trong thành tất phải xin hàng.
      Thực hiện chủ trương đó, Lê Lợi quyết định dời đại bản doanh lên khu vực Bồ Đề (Long Biên – Hà Nội ngày nay) đối diện với thành Đông Quan, để trực tiếp chỉ huy vây ép địch. Theo đó Nghĩa quân đã tổ chức đánh nhiều trận tiêu diệt các doanh trại bảo vệ vòng ngoài, siết chặt vòng vây, kiên quyết đánh bại các đợt phản kích của chúng. Đúng như ta dự đoán, để giải vây cho quân đồn trú ở thành Đông Quan, đầu 10 – 1427 nhà Minh huy động lực lượng dự bị chiến lược, chia làm hai đạo tiến vào nước ta. Đạo quân chủ yếu do Liễu Thăng làm Tổng binh gồm 10 vạn quân theo đường Vân Nam tiến sang nhưng đều rơi vào thế trận phục kích quân ta bày sẵn, nên đã nhanh chóng bị tiêu diệt.
      Với nhận định, đánh giá đúng tình hình, xác định chính xác mục tiêu tiến công chủ yếu để đánh một trận quyết định kết thúc chiến tranh. Sau khi viện binh lớn của địch kéo sang, cùng với việc tiếp tục vây, hãm địch ở thành Đông Quan và các thành khác, Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã tiến hành nghiên cứu kĩ tình hình địch, địa hình và khả năng của ta. Viện binh địch tiến vào nước ta theo hai hướng, nếu ta tổ chức đánh cả hai lực lượng cùng một lúc thì rất khó thực hiện, bởi lực lượng của ta có hạn. Hơn nữa Nghĩa quân vẫn phải sử dụng lực lượng đủ mạnh để vây chặt thành trì của địch, đồng thời phải có lực lượng dự bị để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Như vậy nếu tổ chức đón đánh cả hai cánh quân cứu viện thì ta không những không đủ lực lượng để đánh cả hai cánh quân cứu viện, ta không những không đủ lực lượng để đánh tiêu diệt, mà còn không khóa chặt dược thành trì địch, thậm chí có thể bị chúng đánh từ ba mặt, tình thế hiểm nguy, nếu sai lầm trả giá bằng biết bao sinh mạng binh sĩ.
       Do đó Nghĩa quân đã lựa chọn chính xác, một mặt duy trì lực lượng vây thành; một mặt khác tổ chức tập trung lực lượng để tiêu diệt từng cánh quân cứu viện của địch. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là lựa chọn tiêu diệt đạo viện binh nào trước để thay đổi cục diện chiến trường kết thúc chiến tranh. Trên cơ sỏ phân tích, đánh giá tình hình một khoa học, Lê Lợi và Bộ chỉ huy nghĩa quân nhận thấy đạo viện binh của Mộc Thạnh tuy yếu hơn, dễ đánh, nhưng địa bàn tác chiến lại hiểm trở, nếu ta di chuyển hang vạn quân lên miền Tuyên Quang, Hà Giang để đánh địch thì sẽ gặp khó khăn và nếu khi tình huống thay đổi, khó có thể hội quân kịp thời. Không những thế đạo quân này nếu có bị tiêu diệt thì cũng không có tác động lớn đến đạo viện binh chủ yếu và toàn cuộc chiến tranh. Ngoài ra nếu thực hiện phương án này, ta sẽ không tập trung đủ lực lượng để ngăn chặn đạo quân chủ yếu. Nên chỉ cần lực lượng thích hợp ngăn chặn đạo quân thứ yếu, tập trung lực lượng để tiêu đạo quân chủ yếu, đó mới là “kế vẹn toàn”. Với đạo quân của Liễu  Thăng lực lượng đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu, có quân đông, lực lượng mạnh, hơn nữa quãng đường đến Đông Quang lại ngắn hơn đạo quân kia, nên sẽ rất nguy hiểm nếu ta không ngăn chặn tiêu diệt được chúng.
      Từ đánh giá kết luận tình hình nêu trên cùng với việc tổ chức lực lượng nhỏ, gọn để chặn đánh đạo quân của Mộc Thạnh, Nghĩa quân đã chủ động xây dựng kế hoạch, quyết tâm và tập trung lực lượng chủ yếu tinh nhuệ để đối phó với đạo quân chủ yếu của Liễu Thăng. Đây là nghệ thuật lựa chọn mục tiêu diệt viện có một không hai trong lịch sử, đó là quân ta dám đương đầu với lực lượng mạnh nhất của địch, khi đã nhìn thấy những điểm yếu chí tử của chúng như: kiêu căng, chủ quan, sơ hở, ở thế bị động, để tập trung lực lượng đánh trận quyết chiến chiến lược giành thắng lợi.
      Thực tiễn chiến trường đã chứng minh điều đó, đạo quân Mộc Thạnh do quân ít, đường xa nên tiến quân dè dặt. Trái lại  đạo quân Liễu Thăng cậy đông nên tiến quân ồ ạt không có phòng bị, nên ta đã nhanh chóng lọt vào trận địa phục kích của quân ta và bị tiêu diệt hoàn toàn. Nét đặc sắc của nghệ thuật lựa chọn hướng tiến công chủ yếu còn được thể hiện khi đạo viện quân Liễu Thăng bị đánh tan, quân Mộc Thạnh đã vô cùng khiếp sợ, tự tan rã, tháo chạy về nước và đạo quân Vương Thông phải quy hàng.
      Vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với tình hình để tiêu diệt lực lượng lớn viện binh địch. Trước tình thế hai đạo viện binh chiến lược của địch tạo thành hai gọng kìm tiến vào nước ta Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã nhanh chóng tổ chức lực lượng tiêu diệt toàn bộ các thành trì nằm trên đường cơ động của hai đạo quân cứu viện. Đây là bước tạo thế vô cùng quan trọng cho quân ta, đồng thời làm viện binh địch mất chỗ dựa quan trọng trong quá trình tiến công. Vì vậy khi ta đánh quân viện, ngoài Đông Quan quân Minh chỉ còn thành Toa Đô và Cổ Lộng, ta chỉ cần một lực lượng vừa đủ để vây các thành này.
      Để đánh viện binh địch có hiệu quả, Bộ chỉ huy Nghĩa quân đã nghiên cứu nắm chắc lợi thế về địa hình cùng những điểm mạnh, điểm yếu của từng cánh quân địch. Đối với đạo quân của Mộc Thạnh địa hình tiến quân tương đối hiểm trở nên rất khó cơ động. Vì vậy Nghĩa quân sử dụng lực lượng thích hợp chủ yếu là quân địa phương, lợi dụng địa hình hiểm yếu để ngăn chặn bước tiến của chúng.
      Với đạo quân của Liễu Thăng có quân đông, tướng giỏi lực mạnh Nghĩa quân chủ trương lấy “ đoản chế trường” thực hiện bám sát, nắm chắc địch ngay từ khi chúng đặt chân sang nước ta, tận dụng thế hiểm yếu của địa hình để tạo lập thế trận và sử dụng lực lượng tiêu diệt địch. Theo đó cùng với việc đánh cắt lương thảo, ta sử dụng từng đội quân nhỏ, thiện chiến để đánh chia cắt địch ra từng mảng, đồng thời vận dụng các biện pháp tác chiến nhử chúng vào trận địa phục kích để tiêu diệt. Nhờ đó ta đã làm tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, khiến tư tưởng binh lính địch hoang mang, sức lực cạn kiệt dần, dẫn đến bị động đối phó, từ đó buộc phải triển khai ở thế bất lợi.
Tận dụng thời cơ Nghĩa quân đã tập trung lực lượng với ưu thế vượt trội, tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch. Qua thực tiễn trận đánh cho thấy, Liễu Thăng cùng với quân tiên phong đã bị ta khéo léo dẫn dắt vào trận địa mai phục hiểm trở ở ải Chi Lăng, nên chỉ với 1 vạn quân Nghĩa quân đã tiêu diệt hơn một vạn quân Minh cùng chủ soái. Tiếp đó hơn 1 vạn quân địch bị phơi xác ở Cần Trạm, 2 vạn tên bị tiêu diệt tại Phố Cát…
      Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, địch vội vàng dồn quân xuống cánh đồng Xương Giang để tìm cách đối phó. Nắm chắc thời cơ Lê Lợi quyết định tập trung lực lượng vượt trội bao vây chặt quân địch, hình thành nhiều mũi, nhiều hướng, đồng loạt tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ đạo viện binh chủ yếu của địch.
      Như vậy với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, khoét sâu những điểm yếu chí tử của quân địch, quân và dân ta đã đánh tan 15 vạn quân thiện chiến của nhà Minh, giành thắng lợi to lớn. Thắng lợi đó không chỉ xua đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, kết thúc chiến tranh mà còn đánh bại ý chí xâm lược của chúng đem lại nền thái bình cho đất nước. Thắng lợi này thể hiện nét đặc sắc về nghệ thuật “vây thành diệt viện” được nghiên cứu và vận dụng sáng tạo trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Nghệ thuật “vây thành diệt viện” của Nghĩa quân Lam Sơn đã phát triển đến trình độ cao với nhiều nét đặc sắc. Đây là bài học quý giá vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc ngày hôm nay.
                                                                                     Văn Vũ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đầu Phố

Đầu Phố     Còn chăng tôi đứng chờ em Trăng lên phố nhỏ buông rèm hoàng hôn Phố đêm quán vắng có còn Ai qua phố nhỏ lối mòn đêm t...