Phong Trào Cần Vương. Phong Trào Nghĩa Hội - Quảng Nam
Sau hai hiệp ước Hacmăng(1883),và Patơnôt(1884) đã đánh dấu
sự sụp đổ hoàn toàn của nhà nước phong kiến Việt Nam và sự đầu hàng của triều
đình nhà Nguyễn trước đế quốc Pháp, hay nói như người Pháp là “ nhà nước đại
Pháp”. Tuy nhiên trong triều đình Huế vẫn có một số quan lại yêu nước vẫn nuôi
chí hành động khi có thời cơ, tiêu biểu đó là Tôn Thất Thuyết. Sau khi vua Tự
Đức mất Tôn Thất Thuyết là một trong ba phụ chính đại thần giữ chức vụ Thượng thư
Bộ binh, đang ráo riết liên kết xây dựng lực lượng chờ thời cơ chống lại quân
Pháp. Phái chống Pháp do ông đứng đầu(hay còn gọi là phái chủ chiến) đã bí mật
xây dựng lực lượng (như mở đường thượng đạo, xây dựng các căn cứ sơn phòng trên
dãy Trường Sơn, chuyến vũ khí, lương thực ra Tân Sở - Quảng Trị).
Về phía Pháp: Nội các Pháp đã quyết định đẩy nhanh kế hoạch
chiến tranh, Hạ viện Pháp đã thông qua 500 triệu phơ răng cho ngân sách chiến
tranh Việt Nam, đẩy mạnh hoàn thành chiếm đóng Việt Nam, tiếp tục gửi thêm 6000
quân sang Việt Nam, đồng thời cử tướng Cuôcxy (Dơ cuocy) nắm toàn quyền chỉ huy
cả quân sự và chính trị ở Việt Nam. Khi đến Việt Nam Cuôcxy quyết định tấn công
vào kinh thành Huế, dùng áp lực quân sự loại bỏ phái chủ chiến, giải tán quân
đội triều đình, bắt Tôn Thất Thuyết, buộc vua Hàm Nghi phải thoái vị.
Đứng trước tình hình như vậy Tôn Thất Thuyết đã quyết định
nổ súng “tiên hạ thủ vi cường” nhằm giành thế chủ động. Tôn Thất Thuyết đã cùng
với em mình là Tôn Thất Lệ chỉ huy đánh vào Tòa Khâm Sứ Pháp và đồn Mang Cá.
Tuy nhiên cuộc tấn công đã thất bại, kinh thành Huế thất thủ. Sáng ngày 5 – 7 -
1885, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi rời khỏi kinh đô Huế chạy ra sơn phòng
Tân Sở(Quảng Trị), tại đây Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hạ chiếu
Cần Vương(lần thứ nhất). Ở Quảng Trị một thời gian Tôn Thất Thuyết lại đưa vua
Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê – Hà Tĩnh). Tại đây
vua Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương (lần thứ hai). Hưởng ứng chiếu Cần
Vương, nhân dân ta ở khắp nơi trên đất nước, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu,
văn thân yêu nước đã sôi nổi hăng hái đứng lên chống Pháp. Phong trào Cần Vương
đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, phong trào
nổ ra rầm rộ, rộng khắp, ở khắp nơi, từ Bắc vào Nam, từ Thanh Hóa, Nghệ An,
Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định với rất nhiều cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu, với rất nhiều sĩ phu tiêu biểu. Trong đó có Phong trào Nghĩa
Hội của Trần Văn Dự, Nguyễn Duy Hiệu ở Quảng Nam .
Vào tháng 7 – 1885 hưởng ứng chiếu Cần Vương, Tiến sĩ Trần
Văn Dự, phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, cử nhân Phan Bá Phiến đã đứng ra thành lập
Nghĩa Hội – Quảng Nam, ra bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh đứng lên đáp
nghĩa Cần Vương chống Pháp.
9 – 1885 nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Trần Văn Dự đã bao
vây chiếm tỉnh thành La Qua, quân triều đình là Bố chánh Bùi Tiến Tiên, Tuần
phủ Nguyễn Ngoan đã phải bỏ thành rút chạy, nghĩa quân chiếm tỉnh thành và làm
chủ tỉnh thành, nhưng sau đó quân Pháp phản công chiếm lại thành, rồi thừa
thắng truy kích, tấn công vào các căn cứ của nghĩa quân ở Đại Lộc, Quế Sơn, Tam
Kỳ. Trước sức mạnh và vũ khí tối tân của địch lực lượng nghĩa quân bị tổn thất
nặng nề, các căn cứ của nghĩa quân như Dương Yên, An Lâm, Đại Đồng đều bị địch
bao vây và lần lượt thất thủ. Thủ lĩnh Trần Văn Dự bị giặc bắt rồi xử tử hình,
nhận sự phó thác của Trần Văn Dự, đầu
1886 Nguyễn Duy Hiệu chính thức làm Hội chủ mới của Nghĩa Hội – Quảng
Nam. Việc làm đầu tiên đó là Nguyễn Duy
Hiệu tính đến việc xây dựng các căn cứ chiến đấu lâu dài tại Trung Lộc (Quế
Sơn) và lập Tân tỉnh, đây là nơi trọng yếu chỉ đạo mọi hoạt động của Nghĩa Hội
cả vùng. Về sự kiện này trong tập Hồi ký “Du khảo dọc đường cái quan từ Huế vào
Nam Kỳ” của Giám thị công trường dây thép Camille Paris, đã ghi lại như sau “
Chúng tôi đến Quảng Nam, tỉnh lỵ của tỉnh này…Hiệu tên lãnh tụ phiến loạn đã đi
qua đây…Bọn phiến loạn còn lì lợm đặt một trạm tuyển quân bên kia bờ con
sông…chữ ký của Hiệu, tên lãnh tụ phiến loạn trong vùng, trong đó y kêu gọi bọn
lý trưởng đem rui kèo làm nhà trên núi”. Bên cạnh việc tập trung xây dựng căn
cứ, Nguyễn Duy Hiệu cùng Phan Bá Phiến còn kêu gọi thân hào, nhân sĩ, và tuyển
mộ binh lính trong khắp cả vùng. Hưởng ứng lời kêu gọi đó của Tân hội chủ, đông
đảo thân hào, nhân sĩ của ba tỉnh Quảng Nam – Quảng Ngãi – Bình Định cùng tham
gia Nghĩa Hội chống Pháp “ trừ bạo an dân”
Để đối phó với thế giặc mạnh có “đại bác tàu đồng”, Nguyễn
Duy Hiệu đã thực hiện những chiến thuật chiến tranh truyền thống vốn có của cha
ông, đó là thực hiện chiến tranh du kích “ không dân đất trắng”. Một cựu Khâm
sứ Huế lúc bấy giờ là Louis Baille viết trong Hồi ký như sau “ Người này còn
trẻ mà có nghị lực phi thường, đã dần dần nổi tiếng nên vị anh hùng kỳ dị, dựng
tỉnh Quảng Nam gần thành một nước, Thanh thế y lan mạnh lạ lùng trong hạt. Theo
mệnh lệnh y, các làng bỏ hoang, dân quê tự đốt nhà và thanh dã trước khi quân
ta tới”. Nguyễn Duy Hiệu và những lãnh đạo của Nghĩa Họi đã chỉ huy nghĩa quân
đánh những trận thoát ẩn thoát hiện làm cho quân Pháp khiếp vía kinh hồn. Như
Baille đã thú nhận “ Nó làm tiêu hao lực lượng quân ta bằng những trận đánh
liên tục. Mỗi đêm là một khiêu khích đồn ta, rồi lủi trốn để lẩn tránh, hẳn thế
một cuộc phản công đích đáng. Mộng tưởng của một viên đồn trưởng là luôn luôn
đuổi kịp được giặc, nhưng phần lớn đó chỉ là ảo tưởng đành phải bỏ dỡ…”
Chỉ trong vòng hơn hai năm dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Duy
Hiệu, Nghĩa Hội đã lập được nhiều chiến công vang dội và gây cho giặc nhiều tổn
thất nặng nề. Nhưng gươm giáo thô sơ làm sao có thể cầm cự lại quân đội hùng
mạnh với súng đạn tối tân của Pháp. Do vậy Nghĩa Hội ngày càng bị vây hẹp bởi
không chỉ quân Pháp mà còn có quân của triều đình Đồng Khánh. Thêm vào đó bọn
bán nước cầu vinh đã dùng những thủ đoạn hèn hạ, như bắt cóc mẹ già, vợ con của
Hiệu để uy hiếp. Nhận thấy tình hình Nghĩa Hội ngày càng bị yếu, thế cô, nếu
kéo dài sẽ tiếp tục tổn thất. Nguyễn Duy
Hiệu quyết định giải tán Nghĩa Hội và tự nhận hết tội lỗi về mình “ Nghĩa Hội
Quảng Nam ở ba tỉnh không dưới vài trăm, đều là những người có tên tuổi, nhưng
cam tâm làm giặc chỉ có mình Hiệu mà thôi, Kỳ Dự đều bị ép theo. Họ sợ bị thiêu
hủy nhà cửa, không dám không theo, ngoài ra không có bụng gì khác. Vậy chém. Một
mình Hiệu cũng đủ, chớ nhọc lòng hỏi tội những kẻ khác làm gì.
Sau khi trốn
thoát khỏi sự vây bắt của quân giặc, Nguyễn Duy Hiệu về làng Thanh Hà vào đền Quan
Thánh vái lạy, làm lễ trước mộ thân sinh, vái lạy thầy học và hướng mình về
phía Nghệ An, nơi vua Hàm Nghi đang ẩn náu, sau đó cụ cho người báo tin cho
quân của Nguyễn Thân đến bắt. Trên đường giải về Huế cụ vẫn ung dung mỉm cười. Vào
ngày Trung Thu 1887(Đinh Hợi) cụ bị xử chém tại pháp trường An Hòa(Huế). Cuộc
khởi nghĩa của Nghĩa Hội hay Phong trào Nghĩa Hội đến đây chấm dứt.
Văn Vũ