Sự Phân Tranh Lê – Mạc, Trịnh
– Nguyễn, Đàng Trong – Đàng Ngoài
Thế trận Lê – Mạc, Trịnh –
Nguyễn phân tranh cũng có thể gọi là “ lưỡng long phân tranh” hay dưới góc nhìn
quân sự là “lưỡng hổ tranh ngôi”.
Vào cuối thời kì nhà Lê, nhà
Lê bước vào một giai đoạn suy thoái nghiêm trọng, vua là thiên tử (con trời)
nắm tấc cả binh quyền nhưng lại không có thực quyền, quyền hành nằm trong tay Phủ
Chúa, đó là một tiền lệ chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, một xã hội vừa có
Vua lại vừa có Chúa. Vua Lê – Chúa Trịnh, Chúa Mạc.
Sự tranh chấp của các thế lực
phong kiến nhằm muốn nắm tấc cả binh quyền đã khiến cho xã hội Việt Nam khi đó bước
vào một giai đoạn chiến tranh loạn lạc, binh lửa triền miên, nhân dân thống
khổ, lầm than.
Bắt đầu là sự chia rẽ, tranh
chấp giữa chính Nhà Lê và Chúa Mạc, rồi đến sự tiếm quyền của Họ Trịnh, rồi đến
sự trung hưng của Họ Nguyễn, sự đấu đá tranh giành giữa Nhà Trịnh – Nhà Nguyễn, cục diện này kéo dài suốt hơn 50 năm, cho đến trước khi cuộc khởi nghĩa của ba
anh em Nhà Tây Sơn bùng nổ và giành thắng lợi.
Kể từ khi dựng cờ khởi nghĩa ở đất Tây Sơn,
sau một thời gian dài xây dựng củng cố lực lượng, khi cảm thấy lực lượng đã đủ
mạnh và cảm thấy sự tranh chấp mâu thuẫn giữa Nhà Trịnh và Nhà Nguyễn đã đến
đỉnh điểm. Nhưng ba anh em Nhà Tây Sơn biết rằng cùng một lúc phải đương đầu với
hai thế lực Trịnh, Nguyễn, thì không đủ sức, có khi còn bị tiêu diệt, nên ba anh
em nhà Tây Sơn mới nhẫn nhịn chờ thời, “ tọa sơn quan hổ đấu” để cho hai hổ
đánh nhau “ ngư ông đắc lợi” khi Nhà Trịnh và Nhà Nguyễn vì tranh giành đấu đá
lẫn nhau mà suy yếu, ba anh em nhà Tây Sơn nhận thấy đã đến lúc xuất binh, nên
sai người ra Bắc ngầm liên kết với Nhà Trịnh hợp binh đánh Nguyễn, và đồng thời
“phạt Nguyễn lộ bố văn”. Lực lượng của ba anh em nhà Tây Sơn trong đánh ra, họ
Trịnh ngoài đánh vào, Nhà Nguyễn thua tan tác, Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Khoát
phải bỏ chạy vào Gia Định.
Lúc này thế trận đã thay đổi,
Nhà Nguyễn bị đánh bại bỏ chạy vào Gia Định đã tìm cách xây dựng lại lực lượng,
cháu của Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Ánh đã xây dựng lực lượng ở đất Gia Định.
Lúc này lực lượng của ba anh em nhà Tây Sơn rơi vào thế “ lưỡng đầu thọ địch” rất là bất lợi và nguy hiểm, nên vẫn kế sách
cũ, ngầm liên kết với Họ Trịnh để tập trung lực lượng đánh Nguyễn (Nguyễn Ánh).
Ở vào giai đoạn này ta thấy rõ và bộc lộ tấc cả tài năng của người anh hùng áo
vải Nguyễn Huệ.
Khi chính thức trở thành một trong ba thủ lĩnh của Tây Sơn,
Nguyễn Huệ mới vừa tròn 18 tuổi, trong lịch sử nước ta Nguyễn Huệ được xếp vào hàng
những danh tướng kiệt xuất, bắt đầu sự nghiệp cầm quân từ rất sớm. Tài năng của
Nguyễn Huệ được bộc lộ và thể hiện rõ nét trong năm lần Huệ cầm quân đánh vào
Gia Định nhằm tiêu diệt lực lượng của Nguyễn Ánh, trong năm lần này Nguyễn Huệ
đều giành thắng lợi, lực lượng của Nguyễn Ánh bị tổn thất nghiêm trọng. Nguyễn Ánh
đại bại phải trốn khỏi đất Gia Định chạy sang nương nhờ và cầu viện triều đình
phong kiến Nhà Xiêm. Sau khi nhận lời cầu viện của Nguyễn Ánh, Vua Xiêm “đục
nước béo cò”, “mượn nước đẩy thuyền”, một là giúp Nguyễn Ánh sau là sang xâm
lược nước ta. Năm 1784, quân Xiêm do hai tướng Chiêu Tăng, và Chiêu Sương chỉ
huy tiến vào xâm lược nước ta, lực lượng của quân Xiêm lúc này là 5 vạn. Nhưng
quân Xiêm đã phải đại bại dưới tay Nguyễn Huệ, tiêu biểu nhất là trận Rạch Gầm –
Xoài Mút với “không thuyền kế”, chôn vùi uy thế quân Xiêm. Từ sau trận ấy “
Người Xiêm ngoài miệng tuy nói khoác, nhưng trong bụng sợ quân Tây Sơn như sợ
cọp”.
Sau khi đánh bại lực lượng của Nguyễn Ánh. Nguyễn Nhạc lên
ngôi Hoàng Đế chọn Đồ Bàn làm Kinh đô, vào lúc này thì Họ Trịnh ở Đàng Ngoài đã
suy yếu, ba anh em nhà Tây Sơn nhận thấy đã đến lúc tiêu diệt họ Trịnh lật đổ cơ
đồ trống trị của họ Trịnh ở Đàng Ngoài, cũng nhân cơ hội Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ họ
Trịnh theo Tây Sơn, làm nội ứng, Nguyễn Huệ được cử làm tiết chế thống lĩnh
quân thủy bộ đánh ra Phú Xuân, đánh ra Bắc Hà. Sau khi xuất quân Nguyễn Huệ
nhanh chóng chiếm được Phú Xuân, rồi để Nguyễn Lữ ở lại giữ Thuận Hóa tiếp tục
thúc quân đánh ra Bắc Hà, với khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh”. Nguyễn Huệ lấy
được Bắc Hà như “bắt cá trong chậu”, giữ
đúng với khẩu hiệu, Nguyễn Huệ trao quyền lại cho vua Lê Hiển Tông, vua Lê Hiển
Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Huệ, rồi rút quân về Nam.
Ở Bắc Hà khi vua Lê Hiển Tông mất Lê Chiêu Thống lên nối ngôi, do bất tài, nhu nhược nên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền chống đối lại triều đình Tây Sơn. Nguyễn Huệ đã sai Ngô Văn Sở và Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Chỉnh, Chỉnh bị giết, còn Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Trung Quốc cầu viện Nhà Thanh. Nhậm đã tôn Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc. Sau khi diệt Chỉnh, Nhậm lại lộng quyền, Huệ lại thân chinh cầm quân ra Bắc diệt Nhậm. Diệt được Nhậm Huệ trao quyền cho tướng Ngô Văn Sở ở lại trấn thủ sau đó rút về Nam, Huệ được cắt cử giữ vùng đất từ Phú Xuân (Nam Đèo Hải Vân) cho tới Bắc Hà. Đến đây ba anh, em Nhà Tây Sơn đã lật đổ toàn bộ cơ đồ thống trị của ba tập đoàn phong kiến Nguyễn (Chúa Nguyễn), Trịnh(Chúa Trịnh), Lê, và cũng chính vào lúc này ba anh em Nhà Tây Sơn bắt đầu lục đục và bất hòa.
Ở Bắc Hà khi vua Lê Hiển Tông mất Lê Chiêu Thống lên nối ngôi, do bất tài, nhu nhược nên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền chống đối lại triều đình Tây Sơn. Nguyễn Huệ đã sai Ngô Văn Sở và Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Chỉnh, Chỉnh bị giết, còn Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Trung Quốc cầu viện Nhà Thanh. Nhậm đã tôn Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc. Sau khi diệt Chỉnh, Nhậm lại lộng quyền, Huệ lại thân chinh cầm quân ra Bắc diệt Nhậm. Diệt được Nhậm Huệ trao quyền cho tướng Ngô Văn Sở ở lại trấn thủ sau đó rút về Nam, Huệ được cắt cử giữ vùng đất từ Phú Xuân (Nam Đèo Hải Vân) cho tới Bắc Hà. Đến đây ba anh, em Nhà Tây Sơn đã lật đổ toàn bộ cơ đồ thống trị của ba tập đoàn phong kiến Nguyễn (Chúa Nguyễn), Trịnh(Chúa Trịnh), Lê, và cũng chính vào lúc này ba anh em Nhà Tây Sơn bắt đầu lục đục và bất hòa.
Nhân lúc này Nguyễn Ánh
đã tìm cách “ly gián” chia rẽ hơn nữa ba anh em nhà Tây Sơn đồng thời từng bước
xây dựng và củng cố lại lực lượng ở đất Gia Định. Còn Lê Chiêu Thống sau khi
chạy sang Trung Quốc , đã vội cầu viện triều đình Nhà Thanh. Vua Thanh là Càn
Long sau khi nhận được lời cầu viện đã phái 29 vạn quân giao cho tướng Tôn Sĩ
Nghị nói là sang giúp Lê Chiêu Thống, nhưng thực chất là sang xâm lược nước ta.
Nhận được tin cấp báo, đứng trước thách thức như vậy, để tạo nên danh nghĩa
thuận lợi chính thống, ngày 22 – 12 – 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy
niên hiệu là Quang Trung, rồi xuất quân tiến ra Bắc, với tài thao lược Nguyễn
Huệ đã nhanh chóng đại phá 29 vạn quân Thanh.
Đúng vào thời điểm này khi ba anh em nhà Tây Sơn bất hoà chia
nhau cát cứ, Nguyễn Nhạc thì “an phận” Nguyễn Lữ mất, Nguyễn Huệ quyết định mở
một cuộc tổng tấn công vào Gia Định để tiêu diệt hoàn toàn lực lượng của Nguyễn
Ánh thì Nguyễn Huệ đột ngột qua đời.
Thái tử Quang Toản mới 10 tuổi lên nối ngôi, không nắm được
chính sự, các triều thần Tây Sơn lộng quyền, tranh chấp, bất hòa, nhân cơ hội
này Nguyễn Ánh “ly gián” sâu hơn nữa triều đình Tây Sơn và từng bước đánh chiếm
trở lại. 6 – 1802 Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân, và đến 7 – 1802 thì chiếm
được Thăng Long, thống nhất đất nước. Văn Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét